Hiện tượng nóng lên toàn cầu là lúc mà nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trên trái đất đang tăng lên bằng cách quan sát theo cả thập kỷ gần đây. Và hiện tượng nóng lên toàn cầu chính là một báo hiệu nguy hiểm. Nó gây ra rất nhiều những ảnh hưởng nghiêm trọng cho đời sống của con người. Nhất là đối với những người làm việc ở ngoài trời lên tục chẳng hạn như đối với các ngành xây dựng, đánh bắt cá, lâm nghiệp, quân đội,…Vì thế, nhiều quốc gia đã đặt ra các chính sách và mục tiêu nhằm làm giảm đi sự nóng lên toàn cầu này. Trong đó có việc hạn chế khai thác nhiên liệu hóa thạch. Ngay bây giờ, hãy cùng với igtsucks.com tìm hiểu thêm thông tin này bạn nhé.
Mức độ nóng lên toàn cầu khi khai thác nhiên liệu hóa thạch
Một nghiên cứu do các nhà khoa học tại Trường Đại học College London (ULC) (Anh) thực hiện cho thấy. Để mức độ nóng lên toàn cầu dưới 1,5 độ C. Chúng ta cần phải duy trì 60% dầu và loại khí methane hóa thạch. Gần 90% than đá trong lòng đất vào năm 2050. Ngoài ra, sản lượng dầu khí toàn cầu phải giảm 3% mỗi năm cho đến 2050 để đạt mục tiêu này. Phát hiện được công bố trên tạp chí Nature dựa trên 50% xác suất hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5 độ C trong thế kỷ này. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng mô hình hệ thống năng lượng toàn cầu. Nhờ đó, đánh giá lượng nhiên liệu hóa thạch cần được sử dụng trong khu vực và toàn cầu.
Mục tiêu của việc ký thỏa thuận Khí hậu Paris
Theo tác giả chính của nghiên cứu – Dan Welsby thuộc Viện Tài nguyên Bền vững UCL, năm 2015. Với 196 bên đã ký Thỏa thuận Khí hậu Paris, nhằm có thể giữ nhiệt độ toàn cầu tăng trung bình xuống dưới 2 độ C. Mục tiêu mong muốn là 1,5 độ C. “Nghiên cứu mới của chúng tôi chỉ ra rằng. Sản lượng dầu và khí metan hóa thạch toàn cầu đã đạt đỉnh. Từ góc độ khu vực, kết quả của chúng tôi cho thấy rủi ro đáng kể đối với các nhà sản xuất nhiên liệu hóa thạch lớn”, ông Welsby cho biết.
Công trình mới này được xây dựng dựa trên nghiên cứu trước đó vào năm 2015. Nhóm nghiên cứu phát hiện, để hạn chế sự nóng lên ở mức 2 độ C, 1/3 trữ lượng dầu, gần 1/2 trữ lượng khí metan hóa thạch (49%). Và hơn 80% trữ lượng than nên được duy trì ở lòng đất. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng Mô hình Đánh giá Tích hợp TIMES tại UCL (TIAM-UCL). Mô hình nắm bắt các nguồn năng lượng như dầu, khí metan hóa thạch, than đá, hạt nhân, sinh khối và năng lượng tái tạo. Từ sản xuất đến chuyển đổi, phân phối để đáp ứng một số nhu cầu ở mỗi khu vực.
Việc cắt giảm nhiên liệu hóa thạch được đề xuất mang tính khả thi
Mô hình đánh giá các kịch bản khác nhau. Bao gồm cả việc nhu cầu thấp hơn. Trong những lĩnh vực sử dụng nhiều cacbon (hàng không và hóa chất). Sử dụng và lưu trữ cacbon (CCUS) và các công nghệ phát thải âm (NET). Các nhà nghiên cứu nhận thấy, Trung Đông phải để khoảng 60% trữ lượng dầu và khí trong lòng đất. Ngoài ra, các khu vực có nồng độ dầu mỏ với hàm lượng cacbon cao trong cơ sở dự trữ cho thấy. Tỷ lệ trữ lượng không thể khai thác cao. Bao gồm cát dầu ở Canada (83%) và dầu thô nặng ở Trung, Nam Mỹ (73%).
Sự khác biệt giữa các khu vực về tỷ lệ nhiên liệu hóa thạch không được khai thác. Phụ thuộc vào sự kết hợp của các yếu tố. Bao gồm: Chi phí, cường độ sản xuất carbon, chi phí của các công nghệ thay thế cho nhiên liệu hóa thạch. “Giả sử, ý chí chính trị hiện diện để thực hiện các cam kết đã đưa ra ở Paris. Việc cắt giảm nhiên liệu hóa thạch được đề xuất trong nghiên cứu của chúng tôi là hoàn toàn khả thi”, ông Welsby nhận định.